Thưa quý vị và các bạn Trong chuyên mục tuần này chúng tôi xin được giải đáp những vướng mắc về pháp luật qua đơn thư chúng tôi đã tổng hợp được trong tuần qua như sau:
Câu 1. Ông Lê Tiến Trung trú tại phường Tam Thanh, thành phố Lạng Sơn hỏi: Pháp luật quy định như thế nào về việc tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội?
Trả lời
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong Bộ luật Hình sự, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó. Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người, pháp nhân thương mại phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân thương mại khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Việc tổng hợp hình phạt đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội được thực hiện như sau:
Theo quy định của Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, khi tiến hành việc xét xử cùng 01 lần một người phạm nhiều tội, Tòa án sẽ quyết định hình phạt cụ thể đối với từng tội và tổng hợp hình phạt như sau:
1.1. Đối với hình phạt chính
- Nếu các hình phạt đã tuyên cùng là cải tạo không giam giữ hoặc cùng là tù có thời hạn, thì các hình phạt đó được cộng lại thành hình phạt chung; hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn;
- Nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù để tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định nêu trên.
- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân;
- Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình;
- Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
- Trục xuất không tổng hợp với các loại hình phạt khác;
1.2. Đối với hình phạt bổ sung:
- Nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì hình phạt chung được quyết định trong giới hạn do Bộ luật Hình sự quy định đối với loại hình phạt đó; riêng đối với hình phạt tiền thì các khoản tiền phạt được cộng lại thành hình phạt chung;
- Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì người bị kết án phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên.
2. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
- Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.
- Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định nêu trên.
- Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì việc tổng hợp các bản án được thực hiện như sau:
+ Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều của cùng một tòa án thì chánh án tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt.
+ Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong một tỉnh hoặc khác tỉnh, cùng cấp tỉnh, cùng cấp khu vực, cùng cấp quân khu), thì chánh án tòa án ra bản án sau cùng (về mặt thời gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt, cụ thể là:
Nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các tòa án cấp huyện khác nhau (trong cùng một tỉnh hay khác tỉnh), thì chánh án tòa án cấp huyện đã ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt;
Nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các tòa án quân sự khu vực khác nhau (trong cùng một quân khu hay khác quân khu), thì chánh án tòa án quân sự khu vực đã ra bản án sau cùng quyết định tổng hợp hình phạt;
Nếu các bản án đã có hiệu lực pháp luật đều là của các tòa án cấp tỉnh (hoặc đều là của tòa án quân sự cấp quân khu), thì chánh án tòa án cấp tỉnh (hoặc chánh án tòa án quân sự cấp quân khu) ra bản án sau cùng ra quyết định tổng hợp hình phạt.
+ Trong trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các tòa án không cùng cấp thì chánh án tòa án cấp cao hơn ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.
Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án của tòa án nhân dân, có bản án của tòa án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt cũng được thực hiện tương tự như trên.
+ Trong trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật có bản án là của tòa án nước ngoài đã được tòa án Việt Nam công nhận, có bản án là của tòa án Việt Nam, thì Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ra quyết định tổng hợp hình phạt.
Câu 2. Ông Trần Hoàng Tùng trú tại xã Hợp Thành, huyện Cao Lộc hỏi: việc tham gia giao thông trên đường cao tốc được pháp luật quy định như thế nào?
Trả lời
Theo quy định tại Điều 25 Luật Trật tự an toàn giao thông được bộ quy định:
1. Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùngtrên đường cao tốc phải tuân thủ quy tắc giao thông đường bộ sau đây:
a) Trước khi nhập vào làn đường của đường cao tốc phải có tín hiệu xin vào và phải nhường đường cho xe đang chạy trên đường, quan sát xe phía sau bảo đảm khoảng cách an toàn mới cho xe nhập vào làn đường sát bên phải, nếu có làn đường tăng tốc thì phải cho xe chạy trên làn đường đó trước khi nhập vào làn đường của đường cao tốc;
b) Khi chuẩn bị ra khỏi đường cao tốc phải quan sát biển báo hiệu chỉ dẫn, thực hiện chuyển dần sang làn đường sát bên phải, nếu có làn đường giảm tốc thì phải cho xe di chuyển trên làn đường đó trước khi ra khỏi đường cao tốc;
c) Không được cho xe chạy ở làn dừng xe khẩn cấp và phần lề đường;
d) Các quy tắc giao thông đường bộ khác quy định tại Chương này.
2. Chỉ được dừng xe, đỗ xe ở nơi quy định; trường hợp gặp sự cố kỹ thuật hoặc bất khả kháng khác buộc phải dừng xe, đỗ xe thì được dừng xe, đỗ xe ở làn dừng khẩn cấp cùng chiều xe chạy và phải có báo hiệu bằng đèn khẩn cấp; trường hợp xe không thể di chuyển được vào làn dừng khẩn cấp, phải có báo hiệu bằng đèn khẩn cấp và đặt biển hoặc đèn cảnh báo về phía sau xe khoảng cách tối thiểu 150 mét, nhanh chóng báo cho cơ quan Cảnh sát giao thông thực hiện nhiệm vụ bảo đảm trật tự, an toàn giao thông trên tuyến hoặc cơ quan quản lý đường cao tốc.
3. Xe máy chuyên dùng có tốc độ thiết kế nhỏ hơn tốc độ tối thiểu quy định đối với đường cao tốc, xe chở người bốn bánh có gắn động cơ, xe chở hàng bốn bánh có gắn động cơ, xe mô tô, xe gắn máy, các loại xe tương tự xe mô tô, xe gắn máy, xe thô sơ, người đi bộ không được đi trên đường cao tốc, trừ người, phương tiện giao thông đường bộ và thiết bị phục vụ việc quản lý, bảo trì đường cao tốc.
Nhắn tin: Trong tuần vừa qua chúng tôi cũng đã nhận được đơn thư của ông (bà) có tên sau:
Ông Nguyễn Quang Tú, trú tại khối 6, phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Lạng Sơn kiến nghị về việc xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho gia đình ông.
Trong nội dung đơn của ông phần nơi gửi đã gửi đến những cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết.