Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII vừa qua đã tiến hành tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Theo đó, thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, tạo thế và lực mới cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; một số kết quả nổi bật là:
Trước hết, nhận thức, tư duy về quốc phòng, an ninh (QPAN), BVTQ có bước phát triển và ngày càng hoàn thiện.
Nhận thức, tư duy của Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ QPAN, BVTQ được bổ sung, phát triển ngày càng toàn diện, sâu sắc hơn. Trước đây, trong mục tiêu, nhiệm vụ BVTQ chưa đề cập sâu kỹ, đầy đủ về bảo vệ môi trường hòa bình, bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc, nền văn hóa, an ninh phi truyền thống, biển đảo, nhất là về BVTQ trên không gian mạng... Những năm vừa qua, Đảng ta đã cụ thể hóa, xác định rõ hơn mục tiêu BVTQ trong từng chiến lược. Trong an ninh quốc gia, đã chú trọng đề cập cụ thể hơn về an ninh xã hội, an ninh con người. Bổ sung, phát triển cụ thể hóa phương châm trên từng lĩnh vực, từng chiến lược, nổi lên là tư tưởng giữ “trong ấm, ngoài êm”, giữ nước từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy; phương châm “làng giữ làng, bản giữ bản, xã giữ xã, huyện giữ huyện, tỉnh giữ tỉnh”, không trông chờ ỷ lại..., không để nước ta trở thành chiến trường, địa bàn xung đột lợi ích chiến lược của các nước lớn cả trong thời bình và thời chiến; nhất quán chính sách quốc phòng “4 không”, song tùy tình hình Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển mối quan hệ quốc phòng, quân sự với mức độ thích hợp.
Nhận thức về phương thức BVTQ có sự phát triển phù hợp với tình hình mới. Ta kết hợp sử dụng nhiều phương thức, trong đó nhấn mạnh phương thức đấu tranh phi vũ trang, coi xây dựng mình mạnh lên làm phương thức bảo vệ; lấy phòng ngừa, giữ vững bên trong là chính, lấy ngoại giao làm mũi nhọn tiên phong trong giải quyết tranh chấp, xung đột quốc tế.
Về tiềm lực của nền quốc phòng toàn dân (QPTD), nhất quán với các giai đoạn trước; tuy nhiên, Đảng ta đã cụ thể hơn, rõ nét hơn khi khẳng định: “Khai thác mọi nguồn lực, tiềm năng, thế mạnh để xây dựng tiềm lực QPAN gắn với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”. Đảng rất chú trọng, nhấn mạnh hơn nguồn lực con người: “... phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là con người là nguồn lực quan trọng nhất”.
Khách tham quan một gian trưng bày tại Triển lãm Quốc phòng quốc tế Việt Nam 2022. Ảnh: TUẤN HUY |
Nếu trước ta chỉ đề cập kết hợp kinh tế với quốc phòng là chủ yếu thì sau này Đảng xác định đầy đủ, toàn diện hơn về kết hợp kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với QPAN. Chú trọng phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQP): “Xây dựng, phát triển nền CNQP hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ vừa góp phần quan trọng phát triển KT-XH”. Đảng ta nhấn mạnh ưu tiên nguồn lực cho QPAN, đồng thời xác định vai trò của CNQP: “Đẩy mạnh đầu tư và ứng dụng khoa học công nghệ (KHCN) trong nhiệm vụ QPAN; phát triển CNQP, an ninh theo hướng lưỡng dụng, ngày càng hiện đại, có trình độ KHCN cao, là bộ phận quan trọng và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia”. Đặc biệt, lần đầu tiên Đảng xác định bước đột phá cho sản xuất quốc phòng là: Chế tạo được một số loại vũ khí có ý nghĩa chiến lược, từng bước bảo đảm vũ khí, trang bị cho LLVT.
Nhất quán xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, nhưng trước đó chưa đề cập sâu vai trò của nó trong sự nghiệp BVTQ. Từ Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và BVTQ”.
Đảng cũng có tư duy mới về phát triển KHCN: Có chiến lược phát triển KHCN phù hợp với xu thế chung của thế giới và điều kiện đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng và BVTQ trong giai đoạn mới, thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Bên cạnh phát triển đồng bộ các ngành khoa học, chú trọng phát triển công nghệ mới, tập trung ưu tiên chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ KHCN vào các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, con người, QPAN trọng yếu. Tích cực chuyển đổi số, xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số.
Về cơ chế lãnh đạo của Đảng: Quan điểm giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội được xác định từ rất sớm. Đại hội lần thứ IX (2001), Đảng ta bổ sung quan điểm, cơ chế lãnh đạo đối với sự nghiệp QPAN. Đến Chiến lược BVTQ trong tình hình mới (năm 2013), lần đầu tiên Đảng xác định rõ: “Giữ vững sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp BVTQ...”.
Trước sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng của các trào lưu tư tưởng trên thế giới, Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: Tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý luận về quốc phòng, quân sự, an ninh, nghệ thuật quân sự trong tình hình mới. Đây là bước phát triển quan trọng trong nhận thức, tư duy của Đảng về vai trò dẫn đường của lý luận, là kết quả tổng kết, đánh giá sâu sắc các nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030.
Hai là, đã ban hành và triển khai đồng bộ nhiều chiến lược quan trọng.
Đây là thành tích nổi bật trong 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI về Chiến lược BVTQ trong tình hình mới; là kết quả tổng hợp của việc lãnh đạo, chỉ đạo với việc phát huy vai trò, trách nhiệm, trí tuệ, tài năng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, để Đảng hoạch định và ban hành các chiến lược quan trọng có vai trò dẫn dắt thực tiễn sự nghiệp BVTQ đi đúng hướng, đạt kết quả cao nhất.
Rút kinh nghiệm trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX, Đảng đã lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt, tổ chức thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI bài bản, quy mô hơn. Việc xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện của các cấp, các ngành kịp thời, sát với phạm vi chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của từng ban, bộ, ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Nhận thức và hiệu quả thực hiện Chiến lược BVTQ trong tình hình mới của cả hệ thống chính trị và toàn dân được nâng cao.
Ba là, nhận thức và giải quyết các mối quan hệ về đối tác, đối tượng có bước chuyển biến quan trọng.
Đảng đã có phát triển nhận thức, từ tư duy bạn, thù sang đối tác, đối tượng. Nhận thức về đối tác, đối tượng lại có sự biện chứng, linh hoạt hơn và chuyển hóa lẫn nhau. Trong đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong đối tác có thể có mặt có mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh. Với tinh thần yêu chuộng hòa bình, Việt Nam không tự coi ai là đối tượng mà để các quốc gia, các lực lượng quốc tế tự xác định mối quan hệ đối với chúng ta.
Trên thực tiễn, Việt Nam đã giải quyết rất linh hoạt, hiệu quả vấn đề này. Chúng ta đã mở rộng quan hệ với tất cả các nước, các tổ chức quốc tế, khu vực và thực hiện đúng nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia-dân tộc là tối thượng, đồng thời tôn trọng Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế.
Bốn là, chủ động đấu tranh kịp thời, hiệu quả, từng bước đẩy lùi các loại tội phạm và ứng phó kịp thời với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống.
Những năm qua, chúng ta đã tích cực, chủ động đấu tranh, xử lý kiên quyết, mạnh mẽ tội phạm trên mọi lĩnh vực, nhất là tội phạm tham nhũng, kinh tế và tội phạm trên không gian mạng. Cuộc đấu tranh chống “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ có chuyển biến tốt, từng bước ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia; xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương, an toàn, lành mạnh để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Công tác phòng, chống, ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống được triển khai thực hiện có hiệu quả. Ban hành các nghị quyết, văn bản về bảo vệ an ninh phi truyền thống, đồng thời có nhiều giải pháp tích cực bảo vệ môi trường, tài nguyên, chống biến đổi khí hậu, chống xâm nhập mặn, chống tội phạm trên biển, ma túy, gian lận thương mại, buôn lậu qua biên giới, đặc biệt là an ninh mạng; giữ vững an ninh, an toàn trên môi trường sống thực và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.
Năm là, nền QPTD, thế trận QPTD gắn với thế trận an ninh nhân dân (ANND) tiếp tục được củng cố, tăng cường. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân vững mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.
Cả nước đã chăm lo xây dựng nền QPTD độc lập, tự chủ, vững mạnh cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận; gắn nền QPTD với nền ANND. Xây dựng, phát huy mạnh mẽ, hiệu quả vai trò nền tảng của "thế trận lòng dân" đối với nhiệm vụ BVTQ. Công tác giáo dục QPAN có nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt kết quả tốt. Nhận thức về nhiệm vụ QPAN của hệ thống chính trị, toàn dân được nâng lên.
Thực hiện điều chỉnh quy hoạch tổng thể thế bố trí quốc phòng phù hợp với quyết tâm BVTQ, quy hoạch quốc gia và tiến trình phát triển KT-XH. Xây dựng phòng thủ quân khu, khu vực phòng thủ các cấp và phòng thủ dân sự bảo đảm tính cơ động, linh hoạt, liên hoàn, vững chắc; củng cố thế trận ANND trên từng địa bàn; gắn thế trận QPTD với thế trận ANND; sự kết hợp giữa kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại với QPAN và giữa QPAN với kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại trong từng quy hoạch, trên các địa bàn, vùng ngày càng hiệu quả, làm cho sức mạnh BVTQ được nâng lên. Công tác phối hợp giữa các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong huy động, quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực cho QPAN, BVTQ hiệu quả hơn. Tập trung nguồn lực phát triển CNQP, an ninh lưỡng dụng, hiện đại, đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa Quân đội, Công an, dân quân tự vệ và từng bước tham gia vào xuất khẩu.
Xây dựng Quân đội, Công an, dân quân tự vệ vững mạnh đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đẩy mạnh xây dựng LLVT vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; quyết liệt thực hiện việc điều chỉnh tổ chức, biên chế Quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh. Duy trì nghiêm chế độ sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc các mục tiêu, xử lý kịp thời các tình huống quốc phòng, không để bị động, bất ngờ. Xây dựng Công an theo định hướng “Bộ tinh, tỉnh mạnh, huyện toàn diện, xã bám cơ sở” đạt nhiều kết quả tích cực. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng tổng hợp ngày càng cao; lực lượng dân quân tự vệ được xây dựng rộng khắp. Chất lượng huấn luyện, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện có chuyển biến tiến bộ; đăng cai tổ chức và tham gia hội thi, hội thao khu vực, quốc tế đạt thành tích cao.
Sáu là, đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế, tham gia tích cực và hiệu quả lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Công tác hội nhập quốc tế, đối ngoại QPAN, BVTQ đi vào chiều sâu, với nhiều đổi mới, sáng tạo, đạt được kết quả toàn diện, góp phần giữ vững và củng cố môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ nguồn lực cho xây dựng đất nước, tạo vành đai an ninh BVTQ từ sớm, từ xa.
Việt Nam tích cực tham gia vào các diễn đàn đa phương, song phương, xử lý thành công nhiều vấn đề nhạy cảm, phức tạp trong quan hệ quốc tế, giữ vững đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Ban hành và thực hiện có hiệu quả nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế (năm 2013); về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng (năm 2023); kết luận về hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng (năm 2023), cùng các văn bản khác về đối ngoại. Tổ chức thành công nhiều sự kiện quốc tế, hoạt động đoàn kết, triển lãm quốc phòng, giao lưu hữu nghị quốc phòng giữa Việt Nam với các nước; tuần tra chung và diễn tập một số lực lượng.
Chủ động, linh hoạt xử lý các diễn biến ở Biển Đông trên cơ sở Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (1982) và luật pháp Việt Nam, sử dụng các biện pháp ngoại giao, không để xảy ra xung đột vũ trang. Tích cực tham gia hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Lực lượng Quân đội, Công an tham gia giúp Thổ Nhĩ Kỳ khắc phục hậu quả động đất được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đối ngoại đã phát huy tốt vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, củng cố lòng tin, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước và LLVT trên trường quốc tế, góp phần mở rộng thế trận đối ngoại, BVTQ từ sớm, từ xa.
Đại tá LÊ VĂN HƯỞNG (Viện Chiến lược Quốc phòng)
Theo qdnd.vn