Trả lời bạn xem truyền hình ngày 12/01/2021

Thứ 3, 12.01.2021 | 00:00:00
696 lượt xem

Câu 1. Ông Hoàng Hùng Sơn, trú tại xã Quan Sơn, huyện Chi Lăng hỏi: Mức xử phạt hành vi điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy như thế nào?

Trả lời: 

Theo Khoản 7 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ năm 2008 quy định về hành vi bị nghiêm cấm như sau “ Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy”.

* Thứ nhất, đối với người điều khiển, người được chở trên xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô

Theo điểm c khoản 10 và điểm h khoản 11 Điều 5 Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 30/12/2019 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt quy định xử phạt người điều khiển xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô vi phạm quy tắc giao thông đường bộ: “Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy”. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng hình thức xử phạt bổ sung: “bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng”.

Như vậy, theo quy định của pháp luật đối với người điều khiển, người được chở trên xe ô tô và các loại xe tương tự xe ô tô mà trong cơ thể có chất ma túy thì sẽ bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng.

*Thứ hai, đối với người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy

Theo điểm h Khoản 8 và Điểm g Khoản 10 Điều 6 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy vi phạm quy tắc giao thông đường bộ: “Phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy”. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung: “bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng”.

Trong trường hợp này người điều khiển, người ngồi trên xe mô tô, xe gắn máy (kể cả xe máy điện), các loại xe tương tự xe mô tô và các loại xe tương tự xe gắn máy điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy thì sẽ bị phạt tiền từ 6.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe từ 22 tháng đến 24 tháng.

* Thứ 3, đối với người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng (sau đây gọi chung là xe)

Theo điểm c khoản 9 và điểm e khoản 10 Điều 7 Nghị định 100/2019/NĐ-CP quy định xử phạt người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng (sau đây gọi chung là xe) vi phạm quy tắc giao thông đường bộ: “Phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng đối với người điều khiển xe trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy”. Ngoài việc bị phạt tiền, người điều khiển xe thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung: “bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe (khi điều khiển máy kéo), chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ (khi điều khiển xe máy chuyên dùng) từ 22 tháng đến 24 tháng”.

Đối chiếu quy định của pháp luật người điều khiển máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong cơ thể có chất ma túy thì sẽ bị phạt tiền từ 16.000.000 đồng đến 18.000.000 đồng tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ (khi điều khiển xe máy chuyên dùng) từ 22 tháng đến 24 tháng.


Câu 2. Bà Nguyễn Thùy Linh, trú tại phường Đông Kinh, thành phố Lạng Sơn hỏi: Thời hạn báo trước khi người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng theo quy định của pháp luật cụ thể như thế nào?

Trả lời:

Theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2019 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2021) quy định người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần lý do như trên. Nghĩa vụ của người lao động về việc phải báo trước được quy định tại khoản 1 Điều 35 của Bộ luật này như sau: 

“a) Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn;

b) Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng;

c) Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng;

d) Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ

Về thời hạn báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù được quy định tại Điều 7 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14/12/2020 của Chính phủ (Lưu ý: Nghị định này sẽ có hiệu lực từ ngày 01/02/2021). Đó là:

“1. Ngành, nghề, công việc đặc thù gồm:

a) Thành viên tổ lái tàu bay; nhân viên kỹ thuật bảo dưỡng tàu bay, nhân viên sửa chữa chuyên ngành hàng không; nhân viên điều độ, khai thác bay;

b) Người quản lý doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp; Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp;

c) Thuyền viên thuộc thuyền bộ làm việc trên tàu Việt Nam đang hoạt động ở nước ngoài; thuyền viên được doanh nghiệp Việt Nam cho thuê lại làm việc trên tàu biển nước ngoài;

d) Trường hợp khác do pháp luật quy định.

2. Khi người lao động làm ngành, nghề, công việc quy định tại khoản 1 Điều này đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động hoặc người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với những người lao động này thì thời hạn báo trước như sau:

a) Ít nhất 120 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 12 tháng trở lên;

b) Ít nhất bằng một phần tư thời hạn của hợp đồng lao động đối với hợp đồng lao động có thời hạn dưới 12 tháng”.

Bên cạnh đó, theo khoản 2 Điều 35 Bộ luật Lao động năm 2019, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này;Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật này; Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động; Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc;Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật này; Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật này, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật này làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động”.

Người sử dụng lao động phải trả lương trực tiếp, đầy đủ, đúng hạn cho người lao động. Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng không thể trả lương đúng hạn thì không được chậm quá 30 ngày; nếu trả lương chậm từ 15 ngày trở lên thì người sử dụng lao động phải đền bù cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng số tiền lãi của số tiền trả chậm tính theo lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng do ngân hàng nơi người sử dụng lao động mở tài khoản trả lương cho người lao động công bố tại thời điểm trả lương.

Cũng cần lưu ý, vi phạm thời hạn phải báo trước cũng chính là đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Khi đó, người lao động phải thực hiện nghĩa vụ được quy định tại Điều 40 của Bộ luật này. Đó là Không được trợ cấp thôi việc.Phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước. Phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật này”./.

  • Từ khóa