Hoàng Sa-Trường Sa: Việt Nam có bằng chứng lịch sử không thể chối cãi

Thứ 4, 22.04.2020 | 15:14:59
910 lượt xem

Những tài liệu này khẳng định rõ ràng chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa.

LTS: Thời gian qua, tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp do Trung Quốc tiến hành hàng loạt các hoạt động trái phép trên các đảo và bãi đá thuộc quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, xâm phạm nghiêm trọng đến chủ quyền và quyền chủ quyền của Việt Nam; gây nguy cơ mất an ninh, an toàn cho hàng hải và hàng không ở Biển Đông. Mới đây nhất, ngày 18/4 Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố phê chuẩn quyết định thành lập cái gọi là "Quận Tây Sa" và "Quận Nam Sa" trực thuộc tỉnh Hải Nam là hành vi nghiêm trọng, vi phạm luật pháp quốc tế, đặc biệt vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Sự thật lịch sử và căn cứ pháp lý khẳng định chủ quyền không thể chối cãi của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Những động thái của Trung Quốc đang tạo ra những tiền lệ nguy hiểm trên  Biển Đông.

Nhóm phóng viên VOV1 có loạt bài “Bước đi sai trái mới của Trung Quốc ở Biển Đông”.

hoang sa- truong sa: viet nam co bang chung lich su khong the choi cai hinh 1
Cột mốc chủ quyền trên đảo Trường Sa lớn (Ảnh: Việt Đức- VOV.VN)

Theo các tài liệu lịch sử của Việt Nam, Việt Nam đã chiếm hữu thật sự hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa khi nó chưa thuộc chủ quyền của bất cứ quốc gia nào. Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam viết: "giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn". 

Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam- một nhà nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực địa lý, lịch sử Việt Nam phân tích: “Từ bản đồ Hồng Đức năm 1490, rồi sau này của nhà Nguyễn (1838) cũng vẽ bản đồ trong Đại nam nhất thống toàn đồ chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung, phía trên là quần đảo Hoàng Sa, phía dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”

Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn nữa chủ quyền của Việt Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775). Bộ sách này chép rõ, Nhà nước phong kiến Việt Nam đã tổ chức việc khai thác hai quần đảo đó với tư cách một quốc gia làm chủ. Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về. Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định  bao nhiêu suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản". 

GS. Nguyễn Quang Ngọc, Nguyên Viện trưởng Viện Việt Nam học và phát triển, Đại học Quốc gia Hà Nội phân tích: “Chúng ta có 1 loại tài liệu về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa mà không có bất cứ một quốc gia nào có. Tài liệu đó là châu bản. Nó là những báo cáo của Bộ Công về việc thực hiện lệnh của nhà vua, đề nghị cho tàu thuyền đi khảo sát, đo đạc ở Hoàng Sa. Nhà vua xem, đồng ý, phê vào đấy. Tức đây là một loại quyết định chính thức của triều đình được nhà vua phê duyệt. Không có nước nào có những tài liệu này đưa ra làm chứng cả, chỉ có chúng ta có. Những tài liệu này là đỉnh cao tuyệt vời khẳng định rõ ràng chủ quyền của chúng ta ở Hoàng Sa, Trường Sa.”

Rõ ràng, Việt Nam không chỉ có sự hiểu biết lâu đời đến hai quần đảo này mà còn chiếm hữu thực sự chúng ít nhất từ thế kỷ XVII, là nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền trên các quần đảo này. Các tài liệu lịch sử của Việt Nam rất nhiều và khớp với các tài liệu nước ngoài đáng tin cậy cho phép kết luận rằng, từ lâu và liên tục trong hàng mấy trăm năm, từ triều đại này đến triều đại khác, Nhà nước Việt Nam đã làm chủ và luôn duy trì quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Nhiều bản đồ, tập địa đồ hay sách địa lý nước ta chỉ rõ, các quần đảo là một bộ phận của nước ta, cụ thể là: Giáp Ngọ Bình Nam Đồ, 1774; Đại Nam Nhất Thống toàn đồ, 1838; Đại Nam Nhất Thống chí, 1882,vv…Sự quản lý thật sự các quần đảo cũng xuất hiện trong nhiều tài liệu khác của Việt Nam. Những tài liệu quan trọng nhất có thể kể ra là: Đại Nam thực lục tiền biên, 1884 và Đại Nam thực lục chính biên, 1848; Đại Nam nhất thống chí, 1882, vv…

TS Trần Công Trục, nguyên Trưởng Ban, Ban Biên giới của Chính phủ cho biết: “Trong kho lưu trữ ở Huế, chúng ta đã tìm được những bút phê của nhà vua trong việc thành lập đội Hoàng Sa, rồi cử đội này ra Hoàng Sa và Trường Sa, với thời gian cụ thể và cả các quyết định phong chức cho các đội trưởng để chỉ huy ra Hoàng Sa và Trường Sa như Phạm Quang Ảnh, Phạm Hữu Nhật,vv... Chúng ta cũng tìm được trong các gia phả của các dòng họ ở xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn các văn bản của nhà vua trong việc cử các đinh tráng xung vào đội Hoàng Sa. Đây chính là bằng chứng pháp lý để nói rằng, rõ ràng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”.

Từ những tài liệu của Việt Nam, bà Monique Chemillier Gendreau, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu khẳng định, đó chính là những hoạt động để Việt Nam xác lập chủ quyền theo đúng các quy tắc của luật pháp quốc tế áp dụng vào thời điểm đó:

“Khi nghiên cứu các giấy tờ chứng thực lịch sử thấy rõ các Hoàng đế An Nam có giấy chứng thực chủ quyền từ xa xưa, vào khoảng thế kỷ XVI, đặc biệt là trong thế kỷ XVIII,  họ đã tổ chức quản lý các quần đảo này thông qua các đội tàu biển. Theo mùa, các đội tàu này đến các đảo để khai thác tài nguyên thiên nhiên và của cải từ xác các con tàu đắm trôi dạt vào, dùng nhiều biện pháp như trồng cây để bảo đảm cho các vùng đó bớt nguy hiểm hơn cho các tàu bè qua lại. Người ta đã tìm thấy bằng chứng trong chiếu chỉ của vua Minh Mạng về việc này. Trong luật quốc tế, đó là những bằng chứng của chủ quyền.”- bà Monique Chemillier Gendreau nhận định.

Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử-pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam là quốc gia duy nhất đã chiếm hữu, quản lý hai quần đảo một cách liên tục, hòa bình và phù hợp với các quy định luật pháp quốc tế. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng, khẳng định hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Việt Nam. Để hỗ trợ yêu sách chủ quyền phi lý đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của mình, Trung Quốc gần đây đã và đang tiến hành các hoạt động nhằm củng cố yêu sách chủ quyền cả bằng hoạt động quân sự và lập pháp. Trên thực tế, Trung Quốc nâng cấp Hải Nam thành tỉnh thứ 30 của nước này, trong đó bao gồm cả Hoàng Sa, Trường Sa. Mới đây nhất, ngày 18/4 Trung Quốc ngang nhiên tuyên bố thành lập hai Quận Tây Sa đặt tại đảo Phú Lâm (Quần đảo Hoàng Sa) và Nam Sa đặt tại đá Chữ Thập (Quần đảo Trường Sa) trực thuộc tỉnh Hải Nam, đã vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam, không phù hợp với nhận thức chung của lãnh đạo cấp cao hai nước, không có lợi cho tiến trình đàm phán tìm kiếm biện pháp cơ bản, lâu dài cho vấn đề trên biển giữa hai bên. Mời bạn đọc theo dõi tiếp bài 2 của loạt bài "Bước đi sai trái mới của Trung Quốc ở Biển Đông"  ./.


Nhóm PV/VOV.VN

https://vov.vn/chinh-tri/hoang-satruong-sa-viet-nam-co-bang-chung-lich-su-khong-the-choi-cai-1039758.vov

  • Từ khóa