Kiểm soát và hạn chế tối đa biến chứng bệnh vẩy nến

Thứ 2, 20.01.2020 | 15:24:57
650 lượt xem

Vẩy nến là bệnh chuyên khoa da liễu nhưng có thể gây tổn thương nhiều cơ quan khác. Bệnh có thể kéo dài suốt đời hay bộc phát với những đợt riêng lẻ.

Bệnh có biểu hiện rất đa dạng, từ mức độ nhẹ mà người bệnh không nhận biết, đến mức độ nặng ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người bệnh.

Truy “thủ phạm”

Cho đến nay, nguyên nhân thật sự gây bệnh vẩy nến vẫn chưa rõ. Bình thường, các tế bào da cũ chết đi, bong ra và các tế bào da mới thay thế. Ở người mắc bệnh vẩy nến, quá trình này diễn ra nhanh gấp 10 lần (hiện tượng tăng sinh tế bào da) khiến các tế bào da cũ và mới không kịp thay thế, dồn đống lại tạo thành những mảng dày, đỏ, có vẩy trắng hay bạc. Bệnh vẩy nến có thể khởi phát ở giai đoạn sớm từ 16 - 22 tuổi hoặc ở giai đoạn muộn từ 50 - 60 tuổi. Tỷ lệ mắc bệnh giữa nam và nữ như nhau.

Nhiều nghiên cứu cho thấy có tính di truyền (10% con mắc bệnh nếu bố hoặc mẹ bệnh, 40% con mắc bệnh nếu cả bố mẹ đều bệnh). Các giả thuyết khác cho rằng vẩy nến có liên quan đến gene và rối loạn miễn dịch ở cơ thể người bệnh, từ đó dẫn đến các tế bào da tăng sinh rất nhanh và bất thường. Ngoài ra, một số yếu tố môi trường cũng góp phần khởi phát, thúc đẩy cũng như làm nặng thêm bệnh vẩy nến. Các yếu tố đó gồm: Vẩy nến có thể xuất hiện ở những da bị chấn thương thậm chí cả những vết trầy xước nhẹ. Nhiễm trùng đường hô hấp trên do liên cầu trùng như viêm họng, viêm amidan có thể gây khởi phát vẩy nến giọt (một dạng vẩy nến) hoặc làm nặng thêm tình trạng bệnh vẩy nến hiện mắc. Nhiễm HIV cũng làm nặng thêm bệnh vẩy nến. Một số thuốc có thể gây khởi phát hoặc làm nặng thêm bệnh vẩy nến như thuốc điều trị tăng huyết áp (ức chế men chuyển, beta-blocker), kháng sốt rét tổng hợp (chloroquin), lithium, một số kháng viêm non-steroid (indomethacine), progesterone và corticosteroid. Tình trạng stress: buồn phiền, lo lắng, giận dữ, stress thường dễ làm bùng phát và nặng thêm bệnh vẩy nến. Rượu và thuốc lá làm nặng thêm bệnh vẩy nến. Thời tiết lạnh và khô dễ gây bùng phát bệnh.

Các biểu hiện của bệnh

Thương tổn da: Hay gặp và điển hình nhất là các dát đỏ có vẩy trắng phủ trên bề mặt, vẩy dày, có nhiều lớp xếp chồng lên nhau rất dễ bong và giống như giọt nến (vì vậy có tên gọi là vẩy nến). Kích thước thương tổn to nhỏ khác nhau với đường kính từ 1 - 20cm hoặc lớn hơn. Vị trí điển hình nhất của các dát đỏ có vẩy là vùng tì đè, hay cọ xát như: khuỷu tay, đầu gối, rìa tóc, vùng xương cùng, mông. Tuy nhiên, sau một thời gian tiến triển, các thương tổn có thể lan ra toàn thân. Người mắc bệnh vẩy nến thường không ngứa, tuy nhiên, một số có thể ngứa, châm chích, bỏng rát. Những trường hợp nặng, người bệnh có thể xuất hiện nhiều mụn mủ hoặc đỏ da toàn bộ cơ thể.

Thương tổn móng: Có khoảng 30 - 40% bệnh nhân vẩy nến bị tổn thương móng tay, móng chân. Các móng ngả màu vàng đục, có các chấm lỗ rỗ trên bề mặt. Có thể móng dày, dễ mủn hoặc mất cả móng.

Thương tổn khớp: Tỷ lệ khớp bị thương tổn trong vẩy nến tùy từng thể. Thể nhẹ, thương tổn da khu trú, chỉ có khoảng 2% bệnh nhân có biểu hiện khớp. Trong khi đó, ở thể nặng, dai dẳng có đến 20% bệnh nhân có thương tổn khớp. Biểu hiện hay gặp nhất là viêm khớp mạn tính, biến dạng khớp, cứng khớp, lệch khớp, bệnh nhân cử động đi lại rất khó khăn... Một số bệnh nhân thương tổn da rất ít nhưng biểu hiện ở khớp rất nặng, đặc biệt là khớp gối và cột sống.

Với những dấu hiệu trên, có thể phân loại vẩy nến theo từng dạng bệnh.


Vảy nến thể mảng: các mảng da thường xuất hiện ở khuỷu tay, đầu gối và vùng dưới lưng. Đây là dạng thường gặp của bệnh vẩy nến.

Vẩy nến mụn mủ: xuất hiện những mụn mủ ở vùng da tay và chân.

Vẩy nến giọt: các tổn thương có dạng giọt nước xuất hiện khắp cơ thể, thường gặp ở trẻ em sau một đợt viêm họng do nhiễm Streptococci.

Viêm khớp vẩy nến: sưng các khớp ngón tay, ngón chân hoặc xương sống, đầu gối...

Vẩy nến móng: móng dày và có những lỗ nhỏ trên bề mặt móng.

Vẩy nến da đầu: trên da đầu có vẩy hay những mảng da dày màu trắng bạc.

Vẩy nến nếp gấp: thường gặp ở người bị béo phì với các tổn thương ở các vùng nếp gấp của da như: nách, háng, mông...

Đề phòng bệnh biến chứng

Bệnh vẩy nến nếu không được chăm sóc và điều trị đúng người bệnh có thể bị các biến chứng sau: đỏ da toàn thân, vẩy nến mủ, viêm khớp, nhiễm trùng da... Có giả thuyết cho thấy vẩy nến là yếu tố nguy cơ đối với hội chứng chuyển hóa và bệnh tim mạch, nhất là đối với những người vẩy nến nặng.

Lời khuyên của thầy thuốc

Hiện nay, vẫn chưa có phương pháp điều trị khỏi hoàn toàn bệnh vẩy nến. Vì vậy mục tiêu chính của điều trị (dùng thuốc, thuốc sinh học, quang trị liệu...) là giảm viêm và kiểm soát tình trạng tăng sinh tế bào da, giúp người bệnh kéo dài thời gian ổn định của bệnh cũng như ngăn ngừa và hạn chế tối đa các biến chứng của bệnh. Do đó, người bệnh cần tuân thủ theo sự hướng dẫn của bác sĩ chuyên khoa da liễu. Thông báo cho bác sĩ tất cả các thuốc mình đang sử dụng, kể cả thuốc không kê toa. Tái khám đúng hẹn.

Để kiểm soát bệnh và hạn chế tối đa biến chứng, người bệnh nên giữ vệ sinh da tốt, tránh làm tổn thương da và làm khô da. Tránh lo lắng, giận dữ, xúc động mạnh. Không hút thuốc và uống rượu bia. Tắm nắng mỗi ngày khoảng 15-30 phút (trừ trường hợp vẩy nến nhạy cảm ánh sáng). Không sử dụng thuốc không có trong chỉ định của bác sĩ. Không tự ý thoa thuốc có chứa corticosteroid mà không có ý kiến của bác sĩ. Không tự ý ngưng hay thay đổi thuốc mà không có ý kiến của bác sĩ.

Theo suckhoedoisong.vn

https://suckhoedoisong.vn/kiem-soat-va-han-che-toi-da-bien-chung-benh-vay-nen-n168044.html

  • Từ khóa